LẶNG LẼ ĐỜI THƯỜNG
Nếu nói đến một vị phó giáo sư, tiến sĩ, lại đương chức giám đốc một bệnh viện lớn, hẳn nhiều người sẽ hình dung đến một trí tuệ uyên bác được xây đắp từ con đường tu nghiệp ở nước ngoài, từ cuộc sống trong phòng thí nghiệm sáng choang với phong thái cao sang của giới trí thức... Nhưng có một vị phó giáo sư, tiến sĩ, giám đốc bệnh viện đã dám khước từ con đường tu nghiệp trải thảm ở nước ngoài ngay từ khi rời ghế nhà trường phổ thông và ở lại bên những người bệnh là thương binh, dân nghèo, thậm chí là phạm nhân..., để rồi ông phải "chống" tụt hậu bằng cách kiên trì, bền bỉ tìm thầy để học nâng cao chuyên môn, phải quyết tâm học tiếng Anh ở cái tuổi rất khó dung nạp ngoại ngữ... Ông chọn cho mình con đường đi lên gập ghềnh, vất vả hơn nhiều so với những bạn bè đồng nghiệp, giống như cây lúa chẳng chê mảnh đất cằn quê hương ông để mặn mòi lớn lên. Nhưng cuối cùng, với nghị lực phi thường và những hy sinh thầm lặng, người bác sĩ mặc áo lính "gốc rạ nhà quê" ấy vẫn chạm tới đích đến là chinh phục những kỹ thuật khó, hiện đại trong ngành y với phương châm hết lòng vì người bệnh. Ông là PGS.TS, Đại tá Trần Minh Đạo, Giám đốc Bệnh viện 198 - Bộ Công an.
PGS.TS, Đại tá Trần Minh Đạo, Giám đốc Bệnh viện 198 - Bộ Công an.
Chối từ con đường du học để trở thành bác sĩ của dân
17 tuổi, tốt nghiệp cấp 3 xuất sắc, đủ tiêu chuẩn đi học ở nước ngoài - trái ngọt đầu đời ấy từ xưa cho tới nay vẫn là ước mơ cháy bỏng và niềm tự hào khôn tả của biết bao học sinh và các bậc làm cha làm mẹ. Với cậu thanh niên Trần Minh Đạo ngày ấy, đó cũng là niềm vui mừng khôn xiết bởi cậu sắp được thỏa ước mơ nghiên cứu khoa học cháy bỏng và còn bởi đó là thành quả học tập bền bỉ suốt những năm tháng tuổi thơ cơ cực nơi vùng quê nghèo bom đạn Thanh Chương - Nghệ An. Thế nhưng cha cậu - ông Trần Thiệu khi ấy còn đương chức Trưởng ty Công an Nghệ Tĩnh, vừa nghe tin đã cắt phép đột xuất về yêu cầu nhà trường hủy quyết định đi học nước ngoài của con mình và nói với cậu: "Con dừng ngay việc đi nước ngoài học tập. Chiến tranh đang ác liệt, Tổ quốc cần những người như con ra trận, con nên gác bút nghiên lại và viết đơn xung phong ra trận con ạ". Hành động quyết đoán và bất ngờ của người cha là sỹ quan mẫu mực, trọn đời "Sống, làm việc và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại", đã hình thành trong cậu thanh niên Trần Minh Đạo một lý tưởng sống cao đẹp, đó là biết hy sinh và dành trọn nhiệt huyết cho nhân dân, cho Cách mạng. Thay vì đi du học, chàng trai 17 tuổi Trần Minh Đạo xung phong nhập ngũ. Kết thúc khoá huấn luyện 3 tháng, Quân khu định giữ ông lại để đào tạo sỹ quan, nhưng một lần nữa, cha cậu đã đến đơn vị trực tiếp can thiệp để cho con trai mình "được" đi chiến đấu ở chiến trường B. Nếu đem câu chuyện cha cậu - ông Trần Thiệu, người từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Bộ Công an, nhưng rất nhiều lần ra tay "can thiệp" để con mình không hưởng vinh hoa phú quý, không về trung ương, mà lăn lộn cùng người dân nghèo ở địa phương, thì hẳn nhiều người sẽ thấy khó tin đến xót xa. Nhưng chính tấm gương mẫu mực của người cha từng nhiều đêm mất ngủ vì thương con, từng nuốt nước mắt vào trong để viết những câu thơ động viên con: "Mười năm đèn sách đã thành công/Đáp lời Đảng gọi giữ non sông/Xếp bút mau, con ra tuyến lửa/Diệt thù xâm lược khỏi trời Đông/Trời Đông trong sáng rực cờ hồng/Bố đón con về kể chiến công/Trung hiếu nghĩa tình con làm trọn/Xứng trai quê Bác bố vui lòng", đã giúp cho bác sĩ Trần Minh Đạo có được tính cách quyết liệt, vươn lên không ngừng chinh phục kỹ thuật chuyên môn trong ngành y và phương châm hết lòng vì người bệnh trong suốt cuộc đời mình.
Khi chiến tranh kết thúc, cậu thanh niên Trần Minh Đạo rời khỏi chiến trường B sau khi đã trải qua những cơn sốt rét ác tính, nếm đủ chông gai từ các mặt trận ác liệt Quảng Trị, Nam Lào, BT34, BT52... trên đất bạn Campuchia. Với nhiều chiến công xuất sắc, khi Hiệp định Pari được ký kết, ông là một trong hai chiến sĩ Quyết thắng của Trung đoàn 13 được cử ra Bắc ôn thi đại học. Dù chỉ trải qua một thời gian ngắn dùi mài kinh sử, ông vẫn thi đỗ Đại học Quân y với số điểm cao (24 điểm). Năm 1979, vừa tốt nghiệp Đại học Quân y sau 6 năm học tập miệt mài thì chiến tranh Biên giới xảy ra, bác sĩ trẻ Trần Minh Đạo lại khoác ba lô lên đường nhận nhiệm vụ tại các đơn vị của Quân khu 9 (biên giới phía Tây Nam) và Bệnh viện dã chiến 85 của Cục Quân y tại các tỉnh biên giới phía Bắc.
PGS. TS Trần Minh Đạo ân cần thăm hỏi bệnh nhân
chạy thận ở Bệnh viện 198
Trận địa không tiếng súng
Quãng thời gian từ năm 1980 đến năm 1984, rất nhiều người dân ở khu vực Dữu Lâu, Thậm Thình, Việt Trì... (Phú Thọ), gần Bệnh viện dã chiến 85, vẫn còn nhớ tên bác sĩ Đạo. Ngày ấy, ngoài công việc ở bệnh viện, cứ thấy có người dân gọi, chẳng ngại đêm hôm, đường xá xa xôi, bác sĩ Đạo đến nhà tận tình thăm khám. Họ chưa thấy vị bác sĩ ngoại khoa nào chịu đến tận nhà dân làm nhiệm vụ "bà đỡ". Có lúc đang họp Đảng ở cơ quan, có ca sinh khó, bác sĩ Đạo vội vàng bỏ họp đi ngay. Trong điều kiện bệnh viện dã chiến thiếu thốn đủ mọi thứ, có lần, thương bệnh nhân bị liệt cột sống đau đớn, khó chịu, bác sĩ Đạo dùng tay không găng móc phân cho bệnh nhân... Những công việc thầm lặng như thế, hẳn sẽ không được ghi vào bảng thành tích cá nhân, mà chỉ có thể làm bằng tình yêu thương và sẻ chia thật lòng với người bệnh.
Năm 1984, vì hoàn cảnh gia đình, cha công tác bên Lào, mẹ bệnh nặng, bác sĩ Trần Minh Đạo xin chuyển công tác về Công an tỉnh Nghệ an và được tổ chức phân công về Trại giam số 6, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Một mình là bác sĩ nơi trại giam với hầu hết bệnh nhân là phạm nhân, nhiều người vào trại mang theo bệnh tật hiểm nghèo, cơ sở vật chất lại chưa có gì, bác sĩ Đạo đã vận dụng hết kiến thức và khả năng sáng tạo để cứu chữa, nâng cao sức khỏe cho người bệnh. Ông huy động tất cả mọi người dọn vệ sinh, đảm bảo môi trường sạch sẽ để tránh phát sinh, lây lan bệnh dịch, tăng gia sản xuất để cải thiện bữa ăn, nâng cao thể trạng và sức đề kháng. Đặc biệt, ông có sáng kiến xây dựng bệnh xá ngay trong trại, với sự hỗ trợ của các phạm nhân từng là bác sĩ, các y tá của trại và y tá là phạm nhân. Ông tìm tòi thêm các cách chữa bệnh từ Đông y, tận dụng ngay cây, con quanh trại để chữa bệnh, như trồng 3 ha cây đương quy, nấu cao hổ, cao voi, cấy chỉ vào cạnh cột sống để chữa hen... Nhờ thế, bệnh tật của phạm nhân giảm đi đáng kể, nhất là thể trạng được nâng cao. Với tấm lòng thương yêu người bệnh không phân biệt sang hèn, kể cả người đã mất quyền công dân. Có lần, gặp phạm nhân bị lao phổi chuyển thành áp xe, vỡ tung lồng ngực. Biết là bệnh nhân không thể qua khỏi, nhưng sắp đến ngày phạm nhân được tha tù, "nghĩa tử là nghĩa tận", không đành lòng để bệnh nhân chết trong trại, bác sĩ Đạo nghĩ ra cách cắt ni lông dán che phủ lồng ngực bệnh nhân để khỏi tràn khí màng phổi. Sau đó, phạm nhân ấy đã được ra tù và ra đi trong vòng tay gia đình. Có phạm nhân nữ mang thai, ông tự mình đỡ đẻ và nuôi nấng, chăm sóc cháu bé chu đáo như tất cả các cháu bé khác.
Có một kỷ niệm rất giản dị nhưng làm chúng tôi cảm nhận được sự cao quý của nghề y. Đấy là một lần tình cờ trên đường, giữa lúc trời mưa, gặp một cháu bé 6 tháng tuổi tím tái, ngừng thở (do cháu bị viêm phổi, gia đình đã đốt thuốc phiện quá liều), ông vội vàng cấp cứu thổi ngạt, tiêm thuốc cứu sống cháu bé và bắt xe để gia đình đưa cháu đến điều trị tiếp ở Bệnh viện huyện Thanh Chương, Nghệ An. Xong việc, ông lại tiếp tục chuyến đi công tác, chẳng hề nghĩ đến ơn huệ hay đòi hỏi điều gì từ gia đình cháu bé. Tết năm đó, bố mẹ cháu bé lặn lội tìm hỏi bằng được nhà bác sĩ Đạo để cảm ơn, nhưng lúc đó bác sĩ không có nhà mà chỉ có cha ông. Hẳn người cha mẫu mực ấy sẽ cảm thấy ấm lòng và tự hào, bởi không uổng công ông nuôi dạy, rèn dũa một người con trai biết sống hiếu nghĩa trên đời! Bao năm làm nghề y, bác sĩ Trần Minh Đạo tự nhủ một điều tâm huyết: "Trận địa của người thầy thuốc không lừng lẫy như trận địa của các tướng lĩnh binh đoàn, nhưng với người thầy thuốc bình thường với kiến thức hiểu biết của mình, có thể cứu người bệnh thoát khỏi lưỡi hái của thần chết, thì niềm vui của họ khác nào các tướng lĩnh binh đoàn".
Chinh phục kỹ thuật khó
Sau thời gian công tác ở Trại giam số 6, bác sĩ Trần Minh Đạo được điều chuyển về Bệnh viện 198 của Bộ Công an. Với khao khát học tập nâng cao chuyên môn bấy lâu chưa thỏa, ông kiên trì, bền bỉ, tìm tới những bậc cao niên trong nghề để học hỏi, không ngại cả việc xin học dự thính hay nhẫn nại thuyết phục thầy "chịu" nhận mình làm học trò. Ông tiếp tục hoàn thành chuyên khoa cấp I Ngoại tại Đại học Y Hà Nội. Sau đó, năm 1993 ông đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ trước Hội đồng chấm luận án cấp quốc gia với đề tài "Góp phần nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị ung thư dạ dày vùng hang môn vị" và trở thành người cán bộ đầu tiên của Bệnh viện 198 bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ trong nước.
Vươn lên từ những khó khăn không dễ chia sẻ của đời sống riêng tư, những thăng trầm có lúc nghiệt ngã tưởng như không vượt qua nổi, ông lặng lẽ tu dưỡng chuyên môn, được tin tưởng bổ nhiệm giữ cương vị từ Trưởng khoa Ngoại Tổng hợp đến Giám đốc Bệnh viện 198, tiếp tục học Bác sĩ chuyên khoa cấp II Ngoại khoa, hoàn thành 5 đề tài khoa học cấp Bộ, 2 đề tài khoa học cấp cơ sở, hơn 60 công trình nghiên cứu khác được đăng tải trên các tạp chí khoa học trong nước, xuất bản 2 cuốn sách "Những bệnh hiếm gặp" và "Ung thư dạ dày- Một cách nhìn tổng thể, một cách tiếp cận mới", là giảng viên kiêm nhiệm của Học viện Quân y, Ủy viên Ban chấp hành Hội Phẫu thuật nội soi Việt Nam, hội viên Hội Ngoại khoa Việt Nam và được phong chức danh Phó giáo sư. Đặc biệt, để mình không bị tụt hậu, năm 2007, ông tốt nghiệp văn bằng 2 hệ chính quy Đại học Ngoại ngữ, khoa tiếng Anh khi đã bước sang tuổi... 54.
Trên cương vị giám đốc, PGS.TS. Trần Minh Đạo quyết tâm nâng tầm Bệnh viện 198 lên ngang bằng với các bệnh viện phát triển về ngoại khoa. Ông chọn mũi nhọn, chuẩn bị cả con người lẫn trang thiết bị trong nhiều năm. Xóa đi thành kiến Bệnh viện 198 chỉ là bệnh viện ngành, từ năm 2008 đến nay, đã có 6 ca ghép thận được thực hiện thành công. Đặc biệt, Bệnh viện 198 là bệnh viện đầu tiên ở miền Bắc áp dụng thành công kỹ thuật nội soi lấy thận để ghép. Không dừng lại ở đó, PGS.TS. Trần Minh Đạo còn quyết tâm tiến tới thành lập 5 trung tâm chuyên khoa: ung bướu, huyết học - truyền máu; tim mạch, kỹ thuật cao và chỉ đạo tuyến, tiến tới ứng dụng nhiều kỹ thuật khó như xét nghiệm gen, mổ nội soi kết hợp mổ tim mở, thay van tim, ghép tuỷ... Với những nỗ lực không ngừng nghỉ, tháng 2/2010, Đại tá - PGS.TS. Trần Minh Đạo vinh dự được trao tặng danh hiệu cao quý Thầy thuốc nhân dân.
Đường đường là một vị giám đốc, vậy mà mỗi sáng sớm, PGS.TS, Đại tá Trần Minh Đạo lại đi bộ hoặc đi... xe bus đến bệnh viện. Cương vị của ông hoàn toàn có thể được xe đưa đón, nhưng vì luôn đến cơ quan vào lúc 6 giờ, ông không muốn để lái xe phải vất vả dậy sớm theo mình. Sống ở Hà Nội đã 25 năm, nhưng ông vẫn giữ phong thái của người con xứ Nghệ, rất bình dị nhưng quyết liệt và không ngừng tiến lên, "sống như thể sau lưng là vực thẳm". Ông không quên những thầy cô ở trường huyện nghèo Thanh Chương, nên luôn vận động bạn bè đóng góp để thầy cô được nhập viện miễn phí khi đau yếu và tự tay mình thực hành phẫu thuật. Khi nhà ở xa bệnh viện, ông tự đi xe máy vào viện mổ cấp cứu, đợi ôtô đến đón thì rất có thể bệnh nhân sẽ chết, có lúc vừa mổ xong, phóng xe về đến nhà thì có điện thoại bệnh viện gọi, ông lại xách xe quay lại ngay... Từ bác sĩ tận tụy xuống nhà dân nơi bệnh viện dã chiến năm xưa, về Hà Nội, ông thành bác sĩ của khu phố, cứ có người gọi, dù giữa đêm khuya hay tiết trời giá rét, ông không nề hà tới thăm khám và cương quyết không nhận tiền thù lao. Ông ghi trong lòng chúng tôi một dấu ấn bình dị đúng như danh hiệu cao quý mà ông được trao tặng - người thầy thuốc của nhân dân.
Bài đăng trên Báo Công an nhân dân
XỨNG DANH NGƯỜI THẦY THUỐC NHÂN DÂN
Dáng người thấp đậm, nói nhanh, làm việc nhanh, cái chất giọng và tính cách đậm đặc của người miền Trung xứ Nghệ khiến cho Đại tá - PGS-TS Trần Minh Đạo- Giám đốc Bệnh viện 198 của Bộ Công an dẫu có sống đến cả cuộc đời mình ở Thủ đô Hà Nội, có thành danh tới đâu, làm công tác nghiên cứu khoa học với học hàm học vị thì lạ chưa, mỗi lần ông xuất hiện, cất tiếng vẫn chẳng thể trộn lẫn vào ai, vào đâu được cái chất riêng dung dị, mộc mạc của những người đàn ông sinh ra nơi dải đất "cày lên sỏi đá" của Nghệ - Tĩnh.
Hổ phụ sinh hổ tử
Đại tá PGS-TS Trần Minh Đạo là con trai thứ ba trong gia đình, cha đẻ của ông chính là ông Trần Thiệu, nguyên Trưởng ty Công an Nghệ - Tĩnh, Trưởng đoàn chuyên gia Công an nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, nguyên Cục trưởng Cục Vật tư kỹ thuật Bộ Công an Việt Nam, một tấm gương cộng sản kiên trung mẫu mực, một người sỹ quan Công an suốt một cuộc đời chỉ tâm niệm thực hiện cho trọn một lý tưởng: "Sống, làm việc và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại". Ông Trần Thiệu từng được Báo CAND và ANTG giới thiệu chân dung: "Vị tướng không đeo quân hàm". Có một người cha mẫu mực như vậy, từ nhỏ, Trần Minh Đạo đã được dạy dỗ chuẩn mực và nghiêm khắc.
Tuổi thơ của Trần Minh Đạo gian khổ và cơ cực như hầu hết những đứa trẻ miền Trung hiếu học sinh ra nơi túi bom đạn của những năm tháng chiến tranh. Những kỷ niệm về người cha đặc biệt không lúc nào mờ phai trong tâm trí của Đại tá Trần Minh Đạo. Kỷ niệm khắc ghi đầu tiên, mở đầu cho một cuộc đời của cậu thanh niên trẻ Trần Minh Đạo một lý tưởng sống, một tâm hồn đẹp, một tấm lòng nhiệt huyết cho cách mạng, đó là năm ông 17 tuổi, vừa tốt nghiệp cấp 3 xuất sắc, cậu thanh niên ưu tú Trần Minh Đạo đủ tiêu chuẩn để ra nước ngoài học tập.
Niềm vui mừng khôn xiết vì được đi học tiếp và phấn đấu cho những ước mơ nghiên cứu khoa học trong tuổi thơ của mình chưa kịp cháy bùng lên thì chính cha anh, ông Trần Thiệu lúc ấy đang đương chức Trưởng ty Công an Nghệ - Tĩnh đã cắt phép đột xuất về qua trường yêu cầu nhà trường hủy quyết định đi học nước ngoài của con và ghé qua nhà thăm con chỉ để nói với con trai rằng: "Con dừng ngay việc đi nước ngoài học tập. Chiến tranh đang ác liệt, Tổ quốc cần những người như con ra trận, con nên gác bút nghiên lại và viết đơn xung phong ra trận con ạ".
Nghe lời cha, Trần Minh Đạo xung phong nhập ngũ. Kết thúc khoá huấn luyện 3 tháng, Quân khu định giữ ông lại để đào tạo sỹ quan, nhưng cha ông đã đến đơn vị trực tiếp can thiệp để cho con trai mình được đi chiến đấu ở chiến trường B. Ngày đó, đi B thật là thiêng liêng, dẫu biết rằng nơi chiến trường vô cùng ác liệt và gian khổ. Biết vậy nhưng lời cha đã khuyên dạy, ông không thể tỏ ra yếu đuối, sợ hãi hay làm thất vọng niềm tự hào của cha mình về con trai.
Cha con PGS. TS Trần Minh Đạo
Trước ngày đi B, Trần Minh Đạo nhận được bức thư của cha viết rằng: "Cha có thể vì bận công việc không đến tiễn con đi B được, đừng chờ, con đi mạnh giỏi, cha chờ tin chiến thắng của con". Thế nhưng, vào phút cuối cùng trước khi lên đường hành quân, cha ông đã đến, chỉ để ngồi thật yên lặng bên con trai, đọc cho con trai nghe bài thơ ông viết trong những đêm mất ngủ vì thương con, vì phải nuốt nước mắt vào trong để động viên con: "Mười năm đèn sách đã thành công/ Đáp lời Đảng gọi giữ non sông/ Xếp bút mau, con ra tuyến lửa/ Diệt thù xâm lược khỏi trời Đông/ Trời Đông trong sáng rực cờ hồng/ Bố đón con về kể chiến công/ Trung hiếu nghĩa tình con làm trọn/ Xứng trai quê Bác bố vui lòng".
Cuộc đời vất vả gian lao
Đi B theo nguyện vọng của cha, Trần Minh Đạo vào Trung đoàn 13 Bộ đội Trường Sơn, và xung phong vào các mặt trận ác liệt như: Quảng Trị, Nam Lào và vào tận BT34, BT52… trên đất bạn Campuchia. Thời gian cầm súng chiến đấu, ông đã lập nhiều chiến công xuất sắc được tặng Huân chương Chiến công giải phóng và danh hiệu chiến sỹ Quyết thắng, được thăng quân hàm vượt cấp từ Binh nhất lên Trung sỹ, và được kết nạp vào Đảng. Đến khi Hiệp định Pari được ký kết, ông là một trong 2 chiến sỹ Quyết thắng của Trung đoàn 13 được cử ra Bắc ôn thi đại học. Sau một thời gian dài không dùi mài đèn sách vì bận đi chiến đấu, thế nhưng khi thi vào Đại học Quân y, ông đã đỗ cao với 24 điểm và chính thức trở thành sinh viên của Đại học Quân y.
6 năm trời khổ luyện học hành thành tài, năm 1979 vừa tốt nghiệp Đại học Quân y ra trường thì thời điểm chiến tranh Biên giới xảy ra, Trần Minh Đạo lại cùng với đồng đội khoác ba lô lên đường nhận nhiệm vụ tại các đơn vị của Quân khu 9 (biên giới phía Tây Nam) và Bệnh viện dã chiến 85 của Cục Quân y tại các tỉnh biên giới phía Bắc. Từ năm 1979 cho đến năm 1984, công việc của một bác sỹ ở địa bàn miền núi tận biên giới phía Bắc vô cùng gian lao, vất vả nhưng không vì thế mà làm mất đi nhiệt huyết của người say mê làm công tác khoa học.
Năm 1984, do hoàn cảnh gia đình, bố ông, ông Trần Thiệu, lúc này được lãnh đạo Bộ Công an giao trách nhiệm làm Trưởng đoàn chuyên gia Công an Việt Nam tại Lào, mẹ ốm nặng nên nguyện vọng xin chuyển ngành về Bộ Công an và được phân công về làm bác sỹ tại Trại giam số 6 huyện Tân Kỳ tỉnh Nghệ An.
Hơn 10 năm gắn bó với Trại giam Công an số 6, đối tượng bệnh nhân hằng ngày của ông chính là những phạm nhân. Chính tấm lòng với bệnh nhân, sự tận tình chu đáo của một người đã giúp cho bác sỹ Trần Minh Đạo có những nỗ lực vượt bậc trên con đường sự nghiệp của mình. Năm 1985, ông được chuyển về công tác tại Bệnh viện 198 của Bộ Công an. Với cương vị là bác sỹ ngoại khoa, ông đã trực tiếp tham gia mổ và cứu sống nhiều bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo, đem lại niềm vui cho người bệnh và được nhân dân yêu thương, mến phục. Năm 1987, ông tiếp tục hoàn thành chuyên khoa cấp I Ngoại tại Đại học Y Hà Nội.
Năm 1988, ông dự tuyển nghiên cứu sinh tại Học viện Quân y và đã đỗ với số điểm cao. Sau 5 năm làm việc và nghiên cứu, ngày 9/10/1993 ông đã bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ trước Hội đồng chấm luận án cấp quốc gia với đề tài: "Góp phần nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị ung thư dạ dày vùng hang môn vị" và trở thành người cán bộ đầu tiên của Bệnh viện 198 bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ trong nước.
Điểm đáng nói ở đây là trong thời gian này, vợ đi vắng 2 năm, một mình ông vừa nuôi 2 con nhỏ, vừa làm nghiên cứu sinh, và trong số 3 cán bộ của Viện 198 cùng đi bảo vệ thì chỉ mình ông là bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ. Đây là một nỗ lực lớn trong cuộc đời nhiều nỗ lực vươn lên của Đại tá, PGS-TS Trần Minh Đạo. Từ đó, thành công nối tiếp thành công. Năm 1986 ông được bổ nhiệm Phó khoa, năm 1987 lên Trưởng khoa Ngoại Tổng hợp. Năm 2001 được bổ nhiệm Phó giám đốc Bệnh viện 198, đồng thời được Hiệu trưởng trường Đại học Y Hà Nội cấp bằng Bác sỹ chuyên khoa cấp II Ngoại khoa.
Cũng từ năm 1995 đến nay, Đại tá, PGS-TS Trần Minh Đạo đã hoàn thành 5 đề tài khoa học cấp Bộ, 2 đề tài khoa học cấp cơ sở, hơn 60 công trình nghiên cứu khác được đăng tải trên các tạp chí khoa học trong nước, viết và xuất bản được 2 quyển sách tài liệu quý "Những bệnh hiếm gặp" xuất bản năm 2002, và cuốn: "Ung thư dạ dày- Một cách nhìn tổng thể, 1 cách tiếp cận mới" của NXB Y học phát hành năm 2008.
Vừa làm công tác quản lý và cả công tác chuyên môn tại Bệnh viện 198, ông còn là giáo viên kiêm nhiệm của bộ môn Ngoại bụng Học viện Quân y, Ủy viên Ban chấp hành Hội Phẫu thuật nội soi Việt Nam, hội viên Hội Ngoại khoa Việt Nam. Năm 2005, bác sỹ Trần Minh Đạo vinh dự được Nhà nước công nhận chức danh Phó giáo sư. Năm 2007, ông tốt nghiệp văn bằng 2 hệ chính quy Đại học Ngoại ngữ khoa tiếng Anh khi bước sang 54 tuổi.
PGS. TS Trần Minh Đạo luôn trực tiếp thăm khám, điều trị và chú ý đến sự phát triển của Bệnh viện.
Xứng danh người thầy thuốc nhân dân
Với một sự phấn đấu và nỗ lực không ngừng nghỉ, năm 2009 Đại tá Trần Minh Đạo được bổ nhiệm làm Giám đốc Bệnh viện 198 của Bộ Công an. Ngay sau khi nhậm chức, ông đã nhanh chóng triển khai công tác ghép thận tại bệnh viện. Chỉ trong vòng 1 năm, Bệnh viện 198 đã mổ 5 ca ghép thận thành công.
Điều quan trọng nhất là Bệnh viện 198 là bệnh viện đầu tiên ở miền Bắc áp dụng thành công kỹ thuật mới trong mổ ghép thận, đấy là kỹ thuật nội soi để lấy thận ghép. Về thành tích này, cuối năm 2009, ông vinh dự được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen về thành tích triển khai ghép thận tại Bệnh viện 198. Tháng 2/2010, Đại tá-PGS-TS Trần Minh Đạo vô cùng vinh dự khi được Chủ tịch nước ký quyết định tặng Danh hiệu Thầy thuốc nhân dân, phần thưởng cao quý nhất của ngành Y.
Trong niềm vui được chính đích danh Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trao tận tay danh hiệu cao quý này, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện ngắn với PGS-TS Trần Minh Đạo. Ông xúc động tâm sự: "Đây là phần thưởng vô giá, cao quý nhất trong cuộc đời hoạt động nghề y của tôi, đồng thời cũng là một phần thưởng của các cán bộ tập thể Bệnh viện 198 đã tín nhiệm dành cho tôi, là công lao của gia đình, cha mẹ, dạy dỗ tôi nên người. Thực tế những thành quả mà Bệnh viện 198 có được như hôm nay phải biết ơn tới sự quan tâm ưu ái của lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo Tổng cục. Bộ Công an đã dành cho bệnh viện một dự án phát triển tổng thể của bệnh viện, đồng thời dành một dự án ODA của chính phủ viện trợ trang thiết bị y tế, và dự án ghép thận giúp chúng tôi vừa triển khai thành công.
Trong năm 2010, chúng tôi sẽ đẩy nhanh kế hoạch thành lập 4 trung tâm: Đó là Trung tâm Huyết học và truyền máu; Trung tâm Tim mạch; Trung tâm Vật lý trị liệu… Hiện nay theo phê duyệt của Bộ thì chúng tôi sẽ tiến hành thành lập 2 trung tâm đó là Trung tâm Huyết học và truyền máu và Trung tâm Tim mạch. Nếu điều kiện cho phép thì tới đây, Bệnh viện 198 sẽ tiến hành ca ghép tuỷ đầu tiên tại bệnh viện”.
Thay lời kết
Say sưa nói về những dự định, những việc làm sắp tới với một nhịp độ khẩn trương, nhanh nhẹn của người làm công tác ngoại khoa, Đại tá, PGS-TS Trần Minh Đạo, thỉnh thoảng lại cười, nụ cười giòn tan với những thanh âm thoải mái, khỏe khoắn.
Phút trầm ngâm, ông lại kể cho chúng tôi nghe một kỷ niệm cũ về người cha đã khuất của mình: "Có rất nhiều kỷ niệm về cha dành cho tôi trong công tác giáo dục con cái. Nhưng có một kỷ niệm tôi chưa bao giờ kể, đó là năm 1985-1988 tôi được cử đi học ở Cộng hoà Liên bang Đức để nâng cao tay nghề, quá trình học tập đó, tôi được sự tín nhiệm của cán bộ lãnh đạo của Bệnh viện Việt - Đức và các giáo sư đầu ngành. Trong một lần nói chuyện với giáo sư Đỗ Đức Vân là thầy tôi, thầy nói có thể thầy sẽ nhận tôi về Bệnh viện Việt - Đức.
Tôi đem buổi trò chuyện ấy ra kể lại với cha tôi, cha tôi nghiêm mặt lại và mắng tôi thế này: "Cậu là người ăn cháo đái bát. Bộ Công an đã xin cậu về, cậu đi học thành tài là để về giúp cho bệnh viện của Bộ, thế mà cậu lại định đi nơi khác làm việc hả". Sau lần ấy, tôi rút ra thêm được bài học lớn nữa về nhân cách của người chiến sỹ Công an nhân dân từ người cha già của mình. Đây cũng là bài học nằm lòng về việc giáo dục cho cán bộ chiến sỹ Công an hiện nay khi đứng trước những thử thách của cuộc sống, những cám dỗ từ nền kinh tế thị trường. Tôi thường xuyên nhắc nhở, răn dạy và truyền lại cho các thế hệ cán bộ, chiến sỹ là quân lính của tôi hiện đang công tác tại Bệnh viện 198.
Là một người đứng đầu đơn vị, việc giáo dục chính trị, tư tưởng, với trách nhiệm của một Bí thư Đảng uỷ cơ quan thì mình phải làm gương cho cán bộ chiến sỹ, ngoài cái chung là giáo dục tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng, nâng cao y đức, học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì tôi giáo dục chiến sỹ tấm lòng trung thực, trung thực với chính mình, trung thực trong công việc, có ý chí tiến công trong cuộc đời và trong sự nghiệp công tác nghiên cứu khoa học. Mình là người chiến sỹ Công an trên mặt trận y tế, mỗi một người phải tự rèn giũa, phấn đấu để đạt được danh hiệu cao quý nhất, đó là danh hiệu: "Người thầy thuốc nhân dân"
Bài đăng trên Báo Tiền Phong